Hạ qua thu lại tới, một mùa thu dịu dàng mát mẻ mang lại cho
ta một cảm xúc bồi hồi, xao xuyến. Mùa thu này mà tới Hà Giang để tận hưởng
phong cảnh hoang sơ hữu tình, hòa mình vào những thửa ruộng bậc thang khoe sắc
vàng thoang thoảng hương lúa non thì còn gì bằng. Nếu bạn có dự định tìm một
nơi phong cảnh yên bình sau những ngày làm việc căng thẳng mệt mỏi thì Hà Giang
sẽ là một lựa chọn tuyệt vời. Để khám phá Hà Giang này thì bạn có thể đặt tour
du lịch Hà Giang 3 ngày 2 đêm, tour
du lịch Hà Giang 4 ngày 3 đêm của Tour Du Lịch Hà Giang
Giá Tốt - Du Lịch Kỳ Việt. Tới Hà Giang ngoài thưởng ngoạn phong cảnh nên thơ hữu
tình thì ta còn được khám phá nền văn hóa đặc sắc của đồng bào nơi đây. Trong
bài viết này, tour Du Lịch Hà Giang Giá Tốt – Du Lịch Kỳ Việt xin giới thiệu tới
các bạn “ người Lô Lô ”
Người Lô Lô
Người Lô Lô có tên gọi khác: Mùn Di, Di, Màn Di, La La, Qua
La, Ô Man, Lu Lộc Màn. Nhóm địa phương: Lô Lô hoa và Lô Lô đen. Dân số: 3.134 người.
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến (ngữ hệ Hán-Tạng), gần với Miến
hơn. Họ là cư dân có mặt rất sớm ở vùng cực bắc của Hà Giang.Người Lô Lô chủ yếu
làm ruộng nước và nương định canh với các cây trồng chính như lúa nếp, lúa tẻ
và ngô. Chăn nuôi gia đình tương đối phát triển và là một nguồn lợi đáng kể.
Ăn: Người Lô Lô chủ yếu ăn ngô bằng cách xay thành bột đồ
chín. Bữa ăn phải có canh. Họ thường dùng bát và thìa bằng gỗ.
Mặc: Phụ nữ có nhóm mặc áo cổ tròn, xẻ ngực, có nhóm mặc áo
cổ vuông chui đầu, quần chân què, có nơi bên ngoài còn quấn xà cạp. Trang trí
trên y phục bằng hoa văn chắp ghép những mảng vải màu to. Họ có sử dụng hoa văn
in bằng sáp ong.
Ở: Tuỳ từng nơi họ sống trong ba loại nhà: nhà trệt, nhà sàn
hoặc nhà nửa sàn nửa đất ở các huyện Ðồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang), Bảo Lạc (Cao
Bằng), Mường Khương (Lào Cai).
Phương tiện vận chuyển: Người Lô Lô quen dùng gùi đan bằng
mây, giang, có hai quai để chuyên chở; địu trẻ em trên lưng khi đi xa hoặc lúc
làm việc.
Quan hệ xã hội: Người Lô Lô sống tập trung trong các bản
tương đối ổn định. Tính cộng đồng tộc người thể hiện rõ nét.
Có hơn 30 dòng họ khác nhau. Mỗi dòng họ thường quần tụ trong phạm vi một làng
bản, thờ cúng chung một ông tổ và có một khu nghĩa địa riêng nằm trong nghĩa địa
chung của công xã. Người Lô Lô thích các quan hệ hôn nhân nội tộc người và thực
hiện nguyên tắc ngoại hôn giữa các dòng họ.
Người Lô Lô
Cưới xin: Phong tục cưới xin của người Lô Lô mang nặng tính
gả bán với việc thách cưới cao (bạc trắng, rượu, thịt...). Sau hôn nhân, cô dâu
cư trú bên chồng. Con trai cô có thể lấy con gái cậu song không được ngược lại.
Sinh đẻ: Phụ nữ khi mang thai phải kiêng kỵ nhiều trong chế
độ ăn uống và sản xuất. Sản phụ đẻ ở nhà với sự giúp đỡ của bà mụ trong bản.
Sau 12 ngày làm lễ đặt tên cho con và có thể đổi tên nếu đứa trẻ hay khóc hoặc
chậm lớn.
Ma chay: Tang ma có nhiều lễ thức độc đáo như hoá trang, nhảy
múa, đánh lộn... Dấu vết của tục săn đầu còn thể hiện khá rõ ở hiện tượng một
người luôn đeo chiếc túi vải có đựng khúc gỗ hay quả bầu có vẽ mặt người trong
tang lễ.
Thờ cúng:Người Lô Lô thờ cúng tổ tiên, bố mẹ và những người
thân đã mất. Trên bàn thờ có những bài vị hình nhân bằng gỗ, vẽ mặt bằng than
đen. Linh hồn giữ vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh.
Lễ tết: Tết Nguyên đán như người Hán và người Việt. Ngoài ra
còn có tục ăn Cơm mới, tết Ðoan ngọ, Rằm tháng bảy...
Lịch: Họ sử dụng lịch truyền miệng chia năm thành 11 tháng,
mỗi tháng tương ứng với một con vật.
Người Lô Lô
Học: Khoảng thế kỷ thứ 14 người Lô Lô đã có chữ tượng hình với
140 bộ thủ. Người ta dùng phương pháp ghép bộ thủ để diễn đạt nghĩa. Chữ được
ghi trên các tấm gỗ mỏng, trên da thú hoặc loại giấy dày, thô. Tới nay chỉ có một
số gia đình còn giữ lại được một vài mảnh có ghi lại loại chữ đó mà ít ai đọc
được.
Văn nghệ:Là một trong số ít các dân tộc ở nước ta hiện nay
còn sử dụng trống đồng trong sinh hoạt. Trống đồng là một nhạc cụ truyền thống
của người Lô Lô gắn liền với huyền thoại về nạn hồng thuỷ. Truyện kể rằng: xưa
có nạn lụt lớn, nước dâng cao đến tận trời. Có hai chị em nhờ trời cứu để chị
vào trống đồng to, em vào trống đồng nhỏ. Hai chị em thoát chết nhờ trống nổi
lên mặt nước. Hết lụt họ ở trên núi, sống với nhau thành vợ, thành chồng. Họ là
thuỷ tổ của loài người tái sinh.
Trống đồng với tư cách là nhạc khí chỉ được dùng trong đám
tang, giữ nhịp cho các điệu múa dân gian của cộng đồng. Quan niệm về âm dương,
sự sinh sôi nảy nở có lẽ còn được bảo tồn rõ ràng với lối hoà tấu hai trống đực
và cái cùng một lúc. Trống treo trên giá đặt ở phía chân người chết; mặt của
hai trống quay lại với nhau. Người đánh trống đứng ở giữa, cầm dùi đánh bằng
hai đầu, cứ một đầu dùi đánh một trống. Chỉ những người đàn ông chưa vợ hoặc có
vợ không ở trong thời kỳ thai nghén mới được đánh trống.
Trống đồng không những là một tài sản quý, một nhạc cụ độc
đáo mà còn là một khí cụ mang tính chất tôn giáo. Có tiếng trống đồng thì hồn
người chết mới tìm được đường về nơi sinh tụ đầu tiên của tổ tiên. Chỉ có trong
đám ma mới đánh trống đồng. Ngày thường, người ra chôn trống dưới đất ở nơi sạch
sẽ, kín đáo.
Đó cũng là những kinh nghiệm du lịch Hà Giang mà du lịch Kỳ
Việt tổng hợp. Nếu bạn có thắc mắc gì thì có thể liên hệ với chúng tôi:
Điện thoại: (024) 32424670
Hotline: 0972578692
0 nhận xét:
Đăng nhận xét